Chắc hẳn chúng ta đã nghe nói quá nhiều về HIV – căn bệnh thế kỉ đến nay vẫn chưa thể điều trị khỏi hoàn toàn. Nhưng liệu chúng ta đã hiểu đúng và sâu sắc về căn bệnh này chưa? Bệnh HIV lây nhiễm như thế nào? Nguyên nhân là gì? Điều trị HIV như thế nào?
Contents
HIV là gì?
HIV là một loại virus gây tổn hại hệ miễn dịch. Hệ miễn dịch giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng. HIV không được điều trị sẽ lây nhiễm và giết chết các tế bào CD4, một loại tế bào miễn dịch gọi là tế bào T. Theo thời gian, khi HIV giết chết nhiều tế bào CD4, cơ thể có nhiều khả năng bị các loại bệnh nhiễm trùng và ung thư khác nhau.
HIV là một bệnh lý mắc suốt đời và hiện vẫn không có cách chữa trị, mặc dù nhiều nhà khoa học đang nghiên cứu để tìm ra nó. Tuy nhiên, với sự can thiệp của y tế, bao gồm cả liệu pháp kháng virus, người bệnh có thể kiểm soát HIV và sống chung với virus này trong nhiều năm.
Nếu không được điều trị, một người nhiễm HIV có khả năng mắc một tình trạng nghiêm trọng gọi là AIDS. Vào thời điểm đó, hệ miễn dịch quá yếu để chống lại các bệnh và nhiễm trùng khác. Nếu không được điều trị, tuổi thọ của bệnh nhân AIDS chỉ là khoảng ba năm. Với liệu pháp kháng virus, HIV có thể được kiểm soát tốt và tuổi thọ có thể gần giống như người chưa nhiễm HIV.
Tại Mỹ, ước tính có đến 1,1 triệu người hiện đang sống chung với HIV. Trong số những người đó, 1 trong 5 người không biết họ đang mang trong mình virus HIV.
HIV có thể gây ra những thay đổi trên toàn cơ thể.
Bệnh HIV lây nhiễm qua con đường nào?
Con đường lây nhiễm HIV
Bất cứ ai cũng có thể nhiễm HIV. Virus này được truyền trong dịch cơ thể bao gồm:
– Máu
– Tinh dịch
– Dịch âm đạo và trực tràng
– Sữa mẹ
Virus không lây lan trong không khí hoặc nước hoặc qua tiếp xúc thông thường.
Một số cách HIV lây truyền từ người sang người
– Thông qua quan hệ tình dục qua đường âm đạo hoặc hậu môn. Đây là con đường lây truyền phổ biến nhất, đặc biệt là ở nam giới có quan hệ tình dục với nam giới.
– Bằng cách dùng chung kim tiêm, ống tiêm và các vật dụng khác để sử dụng thuốc tiêm.
– Bằng cách dùng chung các thiết bị xăm mà không khử trùng giữa các lần sử dụng.
– Trong khi mang thai, chuyển dạ, hoặc sinh từ một người phụ nữ đến em bé
– Trong thời gian cho con bú
– Thông qua việc sơ chế, ăn trưa hoặc nhai thức ăn của em bé trong bữa ăn.
– Thông qua tiếp xúc với máu của người nhiễm HIV, chẳng hạn như qua kim tiêm
– Virus cũng có thể được truyền qua truyền máu hoặc ghép tạng và mô. Tuy nhiên, xét nghiệm nghiêm ngặt về HIV trong máu được hiến, nội tạng và mô đảm bảo rằng điều này rất hiếm xảy ra.
Mặc dù về lý thuyết vẫn có thể nhưng virus HIV cũng rất hiếm lây lan qua:
– Quan hệ tình dục bằng miệng (chỉ khi có chảy máu nướu hoặc vết loét mở trong miệng)
– Bị người nhiễm HIV cắn (chỉ khi nước bọt có máu hoặc có vết loét mở trong miệng của người đó)
– Tiếp xúc giữa da bị vỡ, vết thương hoặc màng nhầy và máu của người nhiễm HIV
HIV KHÔNG lây lan qua
– Tiếp xúc da kề da
– Ôm, bắt tay hoặc hôn
– Không khí hoặc nước
– Chia sẻ đồ ăn hoặc đồ uống, kể cả vòi nước uống
– Nước bọt, nước mắt hoặc mồ hôi (trừ khi có lẫn máu của người nhiễm HIV)
– Dùng chung nhà vệ sinh, khăn tắm hoặc giường
– Muỗi hoặc côn trùng khác
Điều quan trọng cần lưu ý là nếu một người nhiễm HIV đang được điều trị và có tải lượng virus (số virus có trong máu) không thể phát hiện được thì hầu như không thể truyền virus cho người khác.
Nguyên nhân gây bệnh HIV
HIV là một biến thể của một loại virus lây nhiễm cho loài tinh tinh châu Phi. Các nhà khoa học nghi ngờ virus gây suy giảm miễn dịch simian (SIV) đã di chuyển từ tinh tinh sang người khi người ta ăn thịt tinh tinh bị nhiễm bệnh. Khi đã ở trong quần thể con người, virus đã biến đổi thành thứ mà ngày nay chúng ta gọi là HIV. Điều này có thể xảy ra từ những năm 1920.
HIV lây lan từ người sang người trên khắp châu Phi trong suốt nhiều thập kỷ. Cuối cùng, virus di cư đến các nơi khác trên thế giới. Các nhà khoa học lần đầu tiên phát hiện ra HIV trong mẫu máu của người vào năm 1959.
Xét nghiệm nào dùng để chẩn đoán bệnh HIV?
Có nhiều xét nghiệm khác nhau có thể được sử dụng để chẩn đoán HIV. Các cơ sở y tế có nhiệm vụ xác định xét nghiệm nào là tốt nhất và phù hợp nhất cho mỗi người.
Xét nghiệm kháng thể/kháng nguyên
Xét nghiệm kháng thể/kháng nguyên là những xét nghiệm được sử dụng phổ biến nhất. Chúng cho những kết quả tương đối chính xác sau khoảng 18-45 ngày kể từ khi ai đó bắt đầu nhiễm HIV.
Những xét nghiệm này kiểm tra máu để tìm kháng thể và kháng nguyên. Kháng thể là một loại protein mà cơ thể tạo ra để chống lại nhiễm trùng. Kháng nguyên là một phần của virus kích hoạt hệ miễn dịch.
Xét nghiệm kháng thể
Những xét nghiệm này sẽ kiểm tra máu để tìm kháng thể. Trong khoảng từ 23 – 90 ngày sau khi truyền, phần lớn các trường hợp sẽ phát hiện sự nhân lên của kháng thể HIV, có thể tìm thấy trong mẫu máu hoặc nước bọt.
Các xét nghiệm này được thực hiện bằng cách sử dụng xét nghiệm máu hoặc bông gạc, và không cần chuẩn bị. Một số xét nghiệm cung cấp kết quả trong 30 phút hoặc ít hơn và có thể được thực hiện tại chỗ hoặc phòng khám của cơ sở y tế.
Các xét nghiệm kháng thể khác có thể được thực hiện tại nhà:
Xét nghiệm HIV OraQuick: Một miếng gạc miệng cung cấp kết quả trong ít nhất là 20 phút.
Hệ thống xét nghiệm HIV-1 tại nhà: Sau khi chích ngón tay, mẫu máu sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm được cấp phép. Bạn sẽ được ẩn danh và kết quả sẽ được thông báo ngay ngày hôm sau.
Nếu ai đó nghi ngờ họ đã bị phơi nhiễm HIV nhưng kết quả xét nghiệm tại nhà là âm tính, họ vẫn nên lặp lại xét nghiệm sau ba tháng. Nếu có kết quả dương tính, người bệnh nên đi khám tại các cơ sở y tế của họ để xác nhận.
Xét nghiệm axit nucleic (NAT)
Thử nghiệm đắt tiền này không được sử dụng để sàng lọc chung. Nó dành cho những người có triệu chứng sớm của HIV hoặc có yếu tố nguy cơ đã biết. Xét nghiệm này không tìm kiếm kháng thể mà nó tìm trực tiếp virus. Phải mất từ 5 đến 21 ngày để HIV có thể phát hiện trong máu. Xét nghiệm này thường đi kèm hoặc được xác nhận bằng xét nghiệm kháng thể.
Triệu chứng sớm của bệnh HIV
Vài tuần đầu tiên sau khi một người nhiễm HIV được gọi là giai đoạn nhiễm trùng cấp tính. Trong thời gian này, virus gia tăng nhanh chóng về số lượng. Hệ miễn dịch của người đó đáp ứng bằng cách tạo ra kháng thể HIV. Đây là những protein chống nhiễm trùng.
Trong giai đoạn này, một số người không có triệu chứng ban đầu. Tuy nhiên, nhiều người gặp phải các triệu chứng trong một hoặc hai tháng đầu tiên sau khi nhiễm virus, nhưng thường không nhận ra rằng chúng là do HIV gây ra. Điều này là do các triệu chứng của giai đoạn cấp tính có thể rất giống với các triệu chứng cúm hoặc các loại virus theo mùa khác. Chúng có thể từ nhẹ đến nặng, chúng có thể xuất hiện rồi lại biến mất và chúng có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào từ vài ngày cho đến vài tuần.
Các triệu chứng ban đầu của HIV có thể bao gồm:
– Sốt
– Ớn lạnh
– Sưng hạch bạch huyết
– Đau nhức nói chung
– Phát ban da
– Viêm họng
– Đau đầu
– Buồn nôn
– Đau dạ dày
Vì những triệu chứng này tương tự như các bệnh thông thường như cúm, người mắc bệnh thường không nghĩ rằng họ đi khám bệnh. Và ngay cả khi họ làm như vậy, cơ sở y tế cũng chỉ nghi ngờ cúm hoặc các bệnh đơn giản chứ không cho rằng đó là HIV.
Cho dù một người có triệu chứng hay không, trong giai đoạn này tải lượng virus của họ rất cao. Tải lượng virus là lượng HIV được tìm thấy trong máu. Tải lượng virus cao có nghĩa là HIV có thể dễ dàng lây truyền sang người khác trong thời gian này.
Các triệu chứng ban đầu của HIV thường hết trong vài tháng khi người bệnh bước vào giai đoạn mãn tính hoặc lâm sàng, giai đoạn HIV. Giai đoạn này có thể kéo dài nhiều năm hoặc thậm chí vài chục năm.
Các triệu chứng HIV có thể khác nhau từ người này sang người khác.
Cách điều trị bệnh HIV như thế nào?
Điều trị nên bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi chẩn đoán HIV, bất kể tải lượng virus là bao nhiêu. Phương pháp điều trị chính cho HIV là điều trị bằng thuốc kháng virus, kết hợp các loại thuốc chống sản sinh virus. Điều này giúp bảo vệ các tế bào CD4, giữ cho hệ miễn dịch đủ mạnh để chống lại bệnh tật.
Điều trị bằng thuốc kháng virus giúp ngăn ngừa HIV tiến triển thành AIDS. Nó cũng giúp giảm nguy cơ truyền HIV cho người khác.
Khi điều trị có hiệu quả, tải lượng virus sẽ ngừng tăng lên và có thể không phát hiện được. Người bệnh vẫn bị nhiễm HIV nhưng virus không thể hiện trong kết quả xét nghiệm. Virus vẫn còn trong cơ thể và lượng virus sẽ tăng trở lại nếu người đó ngừng dùng liệu pháp kháng virus. Khi đó, HIV có thể lại bắt đầu tấn công các tế bào CD4.
Các nhóm thuốc điều trị bệnh HIV
Hơn 25 loại thuốc điều trị bằng thuốc kháng virus được chấp thuận sử dụng trong điều trị HIV. Các thuốc này có hoạt tính ngăn chặn sự sinh sản và phá hủy các tế bào CD4 của HIV. Đồng thời chúng cũng giúp hệ miễn dịch chống lại nhiễm trùng. Điều này giúp giảm nguy cơ phát triển các biến chứng liên quan đến HIV, cũng như truyền virus cho người khác.
Những loại thuốc kháng virus này được nhóm thành sáu nhóm:
– Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI)
– Các chất ức chế sao chép ngược không nucleoside (NNRTI)
– Chất ức chế protease
– Chất ức chế phản ứng tổng hợp
– Thuốc đối kháng CCR5, còn được gọi là chất ức chế nhập cảnh
– Thuốc ức chế chuyển chuỗi